Tiềm năng, thế mạnh phát triển chè hữu cơ
Theo GS.TS Đào Thanh Vân, Phó Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, Chủ tịch Chi hội Nông nghiệp hữu cơ – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên cho biết hiện nay cây chè được coi là cây có hiệu quả kinh tế cao so với các cây trồng khác, đóng vai trò xoá đói giảm nghèo và góp phần quan trọng để làm giàu cho địa phương. Theo Viện Quy Hoạch & Thiết Kế Nông Nghiệp, năm 2022 cả nước có 34 tỉnh thành trồng chè; các tỉnh có diện tích chè lớn là Thái Nguyên 22,3 nghìn ha, Hà Giang 20,37 nghìn ha, Phú Thọ 15,41 nghìn ha, Lâm Đồng 11,29 nghìn ha.
Sản lượng chè của Việt Nam tập trung chính tại hai vùng là vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Diện tích chè tính đến hết năm 2021 đạt khoảng 122,6 nghìn ha; năng suất chè đạt 97,5 tạ/ha (năng suất chè đạt cao nhất từ trước đến nay), cao hơn so với năm 2010 là 2,29 tạ/ha, sản lượng trên 1,07 triệu tấn tăng khoảng 227,6 nghìn tấn so với năm 2010.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến thăm vùng chè chủ lực tại Tân Cương - Thái Nguyên.
Nhiều vùng chè cho năng suất cao và chất lượng tốt, nổi tiếng trong nước như: Tân Cương (Thái Nguyên), Mộc Châu (Sơn La), Bảo Lộc (Lâm Đồng)… Các sản phẩm chè ngày càng đa dạng, phong phú về chủng loại, đảm bảo phục vụ nhu cầu tiêu thụ của người tiêu dùng trong và ngoài nước như: Chè xanh, chè Ô Long, chè Hương, chè thảo dược...
Phát triển ngành chè góp phần thúc đẩy nền nông nghiệp, nâng cao mức sống, xoá đói giảm nghèo cho các vùng, đồng thời việc trồng chè đã nâng cao việc sử dụng hiệu quả đất đai vùng miền núi trung du. Tốc độ phát triển của ngành chè đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội, từ đó làm giảm đi sự cách biệt giữa vùng thành thị và vùng miền núi.
Tại Việt Nam nhiều vùng chè có tiềm năng lớn để phát triển hữu cơ.
Cũng theo GS. TS. Đào Thanh Vân mặc dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ cho sản xuất chè theo tiêu chuẩn GAP (Thực hành Nông nghiệp tốt) ở các cấp: quốc gia (VietGAP), khu vực (AsianGAP) và toàn cầu (GlobalGAP) và sản xuất chè theo tiêu chuẩn hữu cơ cấp Quốc gia (TCVN 11041 – 6; 2018. Phần 6: Chè hữu cơ); tiêu chuẩn quốc tế: JAS, IFORM, EU, USDA… nhưng đến nay diện tích triển khai sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ và sản phẩm được cấp giấy chứng nhận hữu cơ vẫn đạt tỷ lệ còn thấp, khoảng trên 7.500 ha (chiếm khoảng 6% trong tổng diện tích chè).
Thực trạng phát triển chè hữu cơ
Theo GS. TS. Đào Thanh Vân, Phó Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, Chủ tịch Chi hội Nông nghiệp hữu cơ – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên cho biết: “Trong đề án “Phát triển sản phẩm nông nghiệp chủ lực tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030”, diện tích cây chè đến năm 2025 là 23.500 ha (trong đó có 235 ha được cấp chứng nhận theo tiêu chuẩn hữu cơ, chiếm 1,0% diện tích) và đến năm 2030 là 24.500 ha (trong đó có 500 ha đạt tiêu chuẩn hữu cơ, chiếm 2,0% diện tích).
Năm 2022, diện tích chè tại Thái Nguyên đã được cấp chứng nhận VietGAP khoảng 5000 ha (chiếm khoảng 22,5%); diện tích áp dụng sản xuất hữu cơ gần 100 ha (trong đó năm 2022 đã có 59,11 ha được cấp chứng nhận hữu cơ và dự kiến năm 2024 cấp chứng nhận hữu cơ cho 33 ha (hiện đang thực hiện chuyển đổi sang canh tác hữu cơ)”.
Tỉnh Thái Nguyên có nhiều diện tích chè sản xuất hữu cơ đã được chứng nhận theo tiêu chuẩn TCVN-11041.
Tại Tuyên Quang, toàn tỉnh có 849,9 ha chè sản xuất theo tiêu chuẩn, quy chuẩn trong đó: 93 ha chè được chứng nhận tiêu chuẩn VietGAP; 27,5 ha chè được chứng nhận tiêu chuẩn hữu cơ.
Vùng nguyên liệu chè Shan tuyết của xã Hồng Thái (Na Hang - Tuyên Quang) có quy mô 64ha.
Lào Cai có diện tích chè sản xuất chè theo VietGAP là 827,5 ha, huyện Bảo Yên (100 ha), Công ty chè Bắc Hà có 696,5 ha đạt tiêu chuẩn hữu cơ... Yên Bái diện tích chè được chứng nhận hữu cơ 427 ha. Hà Giang diện tích chè hữu cơ đạt 7.071,3 ha...
Người dân thôn Phìn Hồ, xã Thông Nguyên (Hoàng Su Phì) liên kết với Hợp tác xã chế biến chè Phìn Hồ sản xuất chè hữu cơ.
Theo GS. TS. Đào Thanh Vân, hiện nay tại các địa phương, các tiến bộ kỹ thuật mới trong sản xuất chè, đặc biệt là sản xuất chè an toàn, GAP, hữu cơ cũng đã được áp dụng; sử dụng phân bón hữu cơ, sinh học, thuốc BVTV sinh học, vi sinh vật có ích..., tuy nhiên số lượng chưa nhiều.
Đặc biệt trong canh tác hữu cơ thì tính “Toàn vẹn hữu cơ”, tức là áp dụng triệt để quy trình sản xuất hữu cơ (Từ canh tác đến thu hoạch, chế biến) còn chưa liên tục nên sản phẩm thường khó được chứng nhận hữu cơ ở các Tổ chức chứng nhận Quốc tế.
Chè đang dần trở thành một trong những cây trồng chủ lực của tỉnh Yên Bái.
Các giải pháp trong phát triển chè hữu cơ
GS. TS Đào Thanh Vân, Phó Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, Chủ tịch Chi hội Nông nghiệp hữu cơ – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
GS. TS Đào Thanh Vân cho biết: “Chè là thức uống hàng ngày của người Việt, do vậy yêu cầu về sản phẩm sạch, an toàn, chất lượng lại càng cần thiết, nhất là trong điều kiện biến đổi khí hậu (BĐKH) diễn ra ngày càng khốc liện kể cả về tần suất và mức độ. Các giải pháp chính trong phát triển sản xuất chè hữu cơ trong hoàn cảnh hiện nay là:
Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức chung của toàn xã hội về vai trò của sản xuất và sử dụng sản phẩm chè hữu cơ, từ đó thay đổi hành vi, có thói quen áp dụng sản xuất hữu cơ, sử dụng sản phẩm hữu cơ; thực hiện từng bước vững chắc, xây dựng mô hình điểm và nhân rộng.
Các địa phương có điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất và chế biến chè hữu cơ cần lựa chọn và xác định đối tượng (giống chè) và vùng sản xuất chè hữu cơ (nên lựa chọn các giống chè Shan, chọn các vùng ít bị tác động bởi quá trình canh tác thâm canh, dễ cách ly - Chè vùng cao)… để tổ chức thực hiện các mô hình sản xuất chè hữu cơ, lồng ghép sản xuất chè hữu cơ với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững.
Bản thân các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ gia đình, nông dân cần tư duy, đầu tư xây dựng và thực hiện các dự án, mô hình sản xuất và chế biến chè hữu cơ theo chuỗi giá trị phù hợp quy hoạch và đặc thù địa phương, trong đó doanh nghiệp phải trở thành nòng cốt dẫn dắt, đa dạng hóa nhiều sản phẩm chè hữu cơ mang lại hiệu quả kinh tế cao; chú trọng thực hiện theo tiêu chuẩn trong sản xuất, chế biến sản phẩm chè hữu cơ, đảm bảo chất lượng; chủ động trong xúc tiến thương mại, mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực nghiên cứu, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chè hữu cơ.
Sản xuất chè hữu cơ kết hợp với du lịch để quảng bá hình ảnh sản phẩm chè đến với người tiêu dùng.
Nhà nước có chính sách và đầu tư có trọng tâm khoa học và công nghệ trong sản xuất và chế biến chè hữu cơ như: đào tạo nguồn nhân lực, các đề tài, dự án, chương trình khoa học có tính ứng dụng cao như công nghệ sinh học trong sản xuất chè hữu cơ, nghiên cứu quy trình canh tác, chế biến phù hợp; nghiên cứu các vật tư đầu vào phục vụ cho canh tác và chế biến chè hữu cơ: phân bón sinh học, thuốc bảo vệ thực vật sinh học.
Nghiên cứu chọn tạo giống chè mới có năng suất, chất lượng cao, có khả năng chống chịu với dịch hại tốt, phù hợp với quy trình canh tác hữu cơ và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Phát triển nông nghiệp công nghệ cao và nông nghiệp hữu cơ là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ”.
Thái Nguyên đã kết hợp sản xuất chè hữu cơ với du lịch trải nhiệm để du khách nắm được các quy trình sản xuất chè hữu cơ an toàn.
Cũng theo GS. TS. Đào Thanh Vân, định hướng này có thể góp phần giúp cải thiện hiệu quả sản xuất nông nghiệp, thông qua tranh thủ tận dụng các thành tựu khoa học công nghệ ứng dụng vào thực tiễn sản xuất có truy suất nguồn gốc, xác định mã số vùng trồng, vùng chế biến… nhằm cải thiện năng suất, chất lượng sản phẩm, hội nhập quốc tế, từ đó nâng cao thu nhập cho người sản xuất, duy trì và cải thiện sức khỏe của cộng đồng thông qua sử dụng các sản phẩm hữu cơ, trong đó có sự đóng góp quan trọng của Trà Việt.
Quốc Toán